Thực hiện hợp đồng soát xét

Thực hiện hợp đồng soát xét

Mức trọng yếu trong soát xét báo cáo tài chính

A70. Các khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đã quy định và hướng dẫn về khái niệm mức trọng yếu trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Mặc dù khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính có thể đề cập đến khái niệm mức trọng yếu bằng các thuật ngữ khác nhau, nhưng nhìn chung, mức trọng yếu được hiểu như sau:

(1) Những sai sót, bao gồm cả việc bỏ sót, được coi là trọng yếu nếu những sai sót này, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, được xem xét ở mức độ hợp lý, có thể gây ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính;

(2) Những xét đoán về mức trọng yếu được thực hiện trong từng trường hợp cụ thể và bị ảnh hưởng bởi quy mô hay bản chất của sai sót, hoặc được tổng hợp của cả hai yếu tố trên;

(3) Những xét đoán về các vấn đề trọng yếu đối với người sử dụng báo cáo tài chính phải dựa trên việc xem xét các nhu cầu chung về thông tin tài chính của một nhóm người sử dụng. Những ảnh hưởng có thể có của các sai sót đến một số ít người sử dụng báo cáo tài chính mà nhu cầu của họ có nhiều khác biệt so với phần lớn những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính sẽ không được xét đến.

A71. Khái niệm về mức trọng yếu, nếu được quy định trong khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, sẽ là cơ sở cho kiểm toán viên xác định mức trọng yếu đối với cuộc soát xét. Nếu khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính không đưa ra khái niệm về mức trọng yếu, các đặc tính được nêu ở trên sẽ giúp kiểm toán viên có cơ sở để xác định mức trọng yếu.

A72. Việc xác định mức trọng yếu mang tính xét đoán chuyên môn và phụ thuộc vào nhận thức của kiểm toán viên về nhu cầu của người sử dụng thông tin trong báo cáo tài chính. Trường hợp này, kiểm toán viên có thể giả định rằng, người sử dụng báo cáo tài chính:

(1) Có sự hiểu biết hợp lý về hoạt động kinh doanh, về kinh tế, về kế toán, và quan tâm nghiên cứu thông tin trong báo cáo tài chính với sự cẩn trọng một cách hợp lý;

(2) Hiểu rằng báo cáo tài chính được lập, trình bày và soát xét trên cơ sở mức trọng yếu;

(3) Nhận thức được tính không chắc chắn tiềm tàng trong việc xác định giá trị do việc sử dụng các ước tính kế toán, các xét đoán và yếu tố của các sự kiện xảy ra trong tương lai;

(4) Đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý trên cơ sở các thông tin trên báo cáo tài chính.

Ngoài ra, trừ khi dịch vụ soát xét được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của một số người sử dụng báo cáo tài chính cụ thể, kiểm toán viên thường không phải xem xét ảnh hưởng có thể có của các sai sót đối với thông tin theo nhu cầu của một số người sử dụng cụ thể, khi thông tin đó khác biệt với nhu cầu chung của người sử dụng báo cáo tài chính.

A73. Cho dù kiểm toán viên cần thu thập mức độ đảm bảo nào để đưa ra kết luận về báo cáo tài chính, thì mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính theo xét đoán của kiểm toán viên là không thay đổi.

Sửa đổi mức trọng yếu

A74. Mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính có thể cần được sửa đổi trong quá trình soát xét khi có:

(1) Tình huống phát sinh trong quá trình soát xét (ví dụ, đơn vị được soát xét quyết định bán một bộ phận kinh doanh chính);

(2) Thông tin mới hay việc thực hiện thêm các thủ tục soát xét theo Chuẩn mực này làm thay đổi hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị được soát xét và hoạt động của đơn vị đó (ví dụ, trong quá trình soát xét, nếu kết quả kinh doanh thực tế khác đáng kể so với kết quả dự kiến vào cuối kỳ đã được sử dụng để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính thì kiểm toán viên cần phải sửa đổi lại mức trọng yếu này).

Hiểu biết cần thiết của kiểm toán viên

A75. Kiểm toán viên cần sử dụng xét đoán chuyên môn để quyết định mức độ hiểu biết cần phải có về đơn vị và môi trường kinh doanh của đơn vị khi thực hiện soát xét báo cáo tài chính của đơn vị theo Chuẩn mực này. Vấn đề chính mà kiểm toán viên cần xem xét là những hiểu biết đã có liệu đã đáp ứng được mục tiêu của kiểm toán viên khi thực hiện hợp đồng soát xét hay chưa. Chuẩn mực này không yêu cầu kiểm toán viên phải có hiểu biết tổng thể sâu sắc về đơn vị như yêu cầu đối với Ban Giám đốc trong quá trình điều hành đơn vị.

A76. Thu thập những hiểu biết về đơn vị được soát xét và môi trường của đơn vị là một quy trình liên tục và linh hoạt trong việc thu thập, cập nhật, và phân tích thông tin trong suốt quá trình soát xét. Hiểu biết về đơn vị cung cấp cho kiểm toán viên cơ sở trong suốt quá trình thực hiện dịch vụ, và được cập nhật khi các điều kiện và hoàn cảnh soát xét thay đổi. Các thủ tục ban đầu của quá trình chấp nhận và duy trì quan hệ khách hàng ở thời điểm bắt đầu hợp đồng soát xét được dựa trên những hiểu biết sơ bộ về đơn vị và về hoàn cảnh cụ thể của hợp đồng. Khi tiếp tục duy trì quan hệ khách hàng, hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị được soát xét còn bao gồm hiểu biết thu được từ các hợp đồng dịch vụ do kiểm toán viên thực hiện trước đó liên quan đến báo cáo tài chính và những thông tin tài chính khác.

A77. Hiểu biết về đơn vị cung cấp cho kiểm toán viên cơ sở để lập kế hoạch và thực hiện các xét đoán chuyên môn trong suốt quá trình soát xét. Đặc biệt, hiểu biết về đơn vị cần phải đủ để giúp kiểm toán viên có thể xác định được các nội dung trong báo cáo tài chính dễ phát sinh sai sót trọng yếu và cung cấp phương pháp cho kiểm toán viên thiết kế và thực hiện các thủ tục soát xét nhằm xử lý những nội dung này.

A78. Khi tìm hiểu về đơn vị được soát xét, môi trường của đơn vị và khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, kiểm toán viên cũng có thể xem xét:

(1) Liệu đơn vị có phải là đơn vị thành viên của một tập đoàn, hay là đơn vị liên kết với một đơn vị khác;

(2) Sự phức tạp của khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng;

(3) Trách nhiệm và yêu cầu về báo cáo tài chính của đơn vị, và liệu những trách nhiệm và yêu cầu này có phù hợp với pháp luật và các quy định có liên quan cũng như các thoả thuận tự nguyện về báo cáo tài chính được thiết lập dựa trên thỏa thuận về quản trị và trách nhiệm giải trình, như thoả thuận bằng hợp đồng với các bên thứ ba hay không;

(4) Các điều khoản có liên quan của pháp luật và các quy định có liên quan được xem là có ảnh hưởng trực tiếp đối với việc xác định các số liệu và thuyết minh trọng yếu trên báo cáo tài chính, như luật và các quy định về thuế, tiền lương và bảo hiểm xã hội;

(5) Mức độ phát triển bộ máy quản lý và quản trị đơn vị liên quan đến việc quản lý và giám sát hệ thống sổ, tài liệu kế toán và báo cáo tài chính làm cơ sở cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Các đơn vị nhỏ thường có ít nhân lực hơn nên ảnh hưởng đến cách thức Ban Giám đốc thực hiện giám sát như việc phân chia trách nhiệm có thể không thực hiện được. Tuy nhiên, khi người chủ sở hữu đơn vị nhỏ đồng thời là Giám đốc thì người đó có khả năng giám sát tốt hơn so với đơn vị lớn. Sự giám sát này có thể bù đắp những hạn chế trong việc phân chia trách nhiệm và quyền hạn;

(6) Quan điểm của cấp quản lý và môi trường kiểm soát của đơn vị nhằm xử lý các rủi ro liên quan đến báo cáo tài chính và việc tuân thủ trách nhiệm về lập và trình bày báo cáo tài chính của đơn vị;

(7) Mức độ phức tạp của hệ thống kế toán, báo cáo tài chính và các kiểm soát có liên quan của đơn vị để duy trì số liệu kế toán và những thông tin liên quan khác;

(8) Thủ tục ghi chép, phân loại, tóm tắt các giao dịch và thu nhập thông tin để tổng hợp báo cáo tài chính và các thuyết minh liên quan;

(9) Các vấn đề đòi hỏi phải điều chỉnh báo cáo tài chính đã được soát xét các kỳ trước của đơn vị.

 

Share this post

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *