Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh đối với đơn vị sử dụng dịch vụ

Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không được điều chỉnh

A11. Việc kiểm toán viên xác định mức trọng yếu theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 thường dựa trên ước tính về kết quả kinh doanh của đơn vị được kiểm toán do kết quả thực tế thường chưa có. Do đó trước khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh, kiểm toán viên cần điều chỉnh lại mức trọng yếu theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 dựa trên kết quả kinh doanh thực tế.

A12. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 quy định trong quá trình kiểm toán, mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính (và mức hoặc các mức trọng yếu đối với các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thuyết minh, nếu có) được điều chỉnh lại khi kiểm toán viên thu thập được thông tin cần thiết dẫn đến cần phải điều chỉnh lại mức trọng yếu đã xác định trước đó.[10] Do đó, kiểm toán viên cần điều chỉnh lại mức trọng yếu trước khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh. Trong trường hợp phải xác định lại mức trọng yếu theo quy định của Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 320 (xem đoạn 10 Chuẩn mực này) và mức trọng yếu xác định lại thấp hơn so với mức trọng yếu trước đó, kiểm toán viên cần xem xét lại mức trọng yếu thực hiện và sự phù hợp về nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục kiểm toán tiếp theo nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp làm cơ sở cho ý kiến kiểm toán.

A13. Ảnh hưởng của từng sai sót riêng lẻ đối với với các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh liên quan cần được đánh giá và xem xét liệu mức trọng yếu áp dụng cho các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hoặc thuyết minh đó có bị vượt quá hay không.

A14. Nếu một sai sót riêng lẻ được đánh giá là trọng yếu thì không được bù trừ với các sai sót khác. Ví dụ nếu doanh thu bị phản ánh cao hơn doanh thu thực tế và sai sót này vượt quá mức trọng yếu thì báo cáo tài chính bị coi là có sai sót trọng yếu ngay cả khi ảnh hưởng của sai sót của khoản mục doanh thu được bù trừ bởi sai sót do ghi tăng chi phí tương ứng và không làm sai sót về lợi nhuận. Việc bù trừ các sai sót trong cùng một tài khoản hoặc loại giao dịch có thể là hợp lý, tuy nhiên cần phải xem xét rủi ro về các sai sót không được phát hiện trước khi kết luận rằng việc bù trừ các sai sót không trọng yếu có phù hợp hay không.[11]

A15. Để xác định sai sót do phân loại các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính có trọng yếu hay không kiểm toán viên cần đánh giá các yếu tố định tính, ví dụ ảnh hưởng của sai sót về phân loại đối với khế nước nợ hoặc các điều khoản hợp đồng khác, ảnh hưởng đối với các tài khoản riêng lẻ hoặc nhóm tài khoản hoặc ảnh hưởng đối với các hệ số cơ bản. Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể kết luận rằng sai sót do phân loại là không trọng yếu đối với toàn bộ báo cáo tài chính, mặc dù sai sót đó có thể vượt quá mức trọng yếu áp dụng để đánh giá các sai sót khác. Ví dụ việc phân loại sai giữa các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán có thể không được đánh giá là trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính khi sai sót do phân loại được đánh giá là nhỏ hơn so với tổng thể các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán và sai sót đó không ảnh hưởng đến Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hoặc các hệ số cơ bản khác.

A16. Trong một số trường hợp, các sai sót, khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp lại, vẫn được coi là trọng yếu mặc dù giá trị của các sai sót này có thể thấp hơn mức trọng yếu áp dụng cho tổng thể báo cáo tài chính, bao gồm mức độ mà sai sót:

· Ảnh hưởng đến việc tuân thủ pháp luật;

· Ảnh hưởng đến việc tuân thủ khế ước nợ hoặc các yêu cầu khác của hợp đồng;

· Liên quan đến việc lựa chọn hoặc áp dụng không chính xác chính sách kế toán mặc dù nó ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính của kỳ hiện tại nhưng có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính trong tương lai;

· Che giấu những thay đổi về thu nhập hoặc các xu hướng khác, đặc biệt trong điều kiện kinh tế chung hoặc của ngành;

· Ảnh hưởng đến các hệ số, tỷ suất phản ánh tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp;

· Ảnh hưởng đến thông tin bộ phận được trình bày trong báo cáo tài chính (ví dụ, ảnh hưởng trọng yếu tới một bộ phận kinh doanh vốn được xem là có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả kinh doanh hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp);

· Ảnh hưởng làm tăng thu nhập của Ban Giám đốc doanh nghiệp, ví dụ giúp đạt các yêu cầu liên quan đến thưởng và các phúc lợi khác cho Ban Giám đốc;

· Đáng kể liên quan đến hiểu biết của kiểm toán viên về thông tin được chuyển tải tới người sử dụng báo cáo tài chính các kỳ trước, ví dụ, liên quan đến việc dự đoán thu nhập;

· Ảnh hưởng đến các khoản mục bên liên quan đến những đối tượng nhất định (ví dụ liệu có các đối tượng bên ngoài đơn vị tham gia các giao dịch có liên quan đến các thành viên Ban Giám đốc của đơn vị hay không);

· Trình bày thiếu các thông tin mặc dù không phải yêu cầu bắt buộc theo quy định trong khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính nhưng theo đánh giá của kiểm toán viên các thông tin này là quan trọng để giúp người sử dụng báo cáo tài chính hiểu biết về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh hoặc lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp; hoặc

· Ảnh hưởng đến các thông tin khác trình bày trong tài liệu có báo cáo tài chính đã được kiểm toán (ví dụ các thông tin trong phần đánh giá hoạt động kinh doanh trong báo cáo thường niên của công ty cổ phần niêm yết) có thể ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 720[12] quy định trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc xem xét các thông tin khác trong tài liệu có báo cáo tài chính đã được kiểm toán mà kiểm toán viên không có nghĩa vụ phải báo cáo.

Những tình huống nêu trên chỉ là những ví dụ, nó không phải là bảng liệt kê tất cả các sai sót cho một cuộc kiểm toán. Đồng thời, sự tồn tại của bất kỳ tình huống nào trong số các tình huống đã nêu cũng không nhất thiết đưa đến kết luận sai sót đó là trọng yếu.

A17. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 240[13] yêu cầu kiểm toán viên cần xem xét ảnh hưởng của một sai sót do hoặc có thể do gian lận đến các khía cạnh khác của cuộc kiểm toán ngay cả trong trường hợp mức độ sai sót này là không trọng yếu đối với báo cáo tài chính.

A18. Tổng hợp các sai sót không trọng yếu và không được điều chỉnh năm trước có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính năm hiện tại. Kiểm toán viên có thể có các cách tiếp cận khác nhau để đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh trong năm trước đối với báo cáo tài chính kỳ hiện tại. Tuy nhiên, việc kiểm toán viên áp dụng cùng một phương pháp để đánh giá sai sót phát hiện sẽ tạo được sự nhất quán qua các năm đối với một khách hàng.

Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công
A19. Đối với các đơn vị trong lĩnh vực công, việc đánh giá sai sót có trọng yếu hay không còn bị ảnh hưởng bởi trách nhiệm của kiểm toán viên (do pháp luật và các quy định có liên quan yêu cầu) trong việc thông báo các vấn đề đặc biệt với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ví dụ sai sót do gian lận.

A20. Ngoài ra, còn có các vấn đề có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá của kiểm toán viên về mức độ trọng yếu của các sai sót, như lợi ích công chúng, trách nhiệm, tính liêm khiết và sự giám sát có hiệu quả của cơ quan lý, đặc biệt là các sai sót liên quan đến việc tuân thủ pháp luật và các quy định.

Trao đổi với Ban quan trị đơn vị được kiểm toán (Tham chiếu: Đoạn 12)

A21. Nếu kiểm toán viên đã trao đổi về các sai sót chưa được điều chỉnh với các thành viên Ban Giám đốc đồng thời là thành viên Ban quản trị, thì kiểm toán viên không cần phải trao đổi lại với chính những cá nhân đó trên cương vị là thành viên Ban quản trị. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần chắc chắn rằng các nội dung trao đổi với Ban Giám đốc đã được thông báo đầy đủ tới các thành viên Ban quản trị đơn vị.[14]

A22. Nếu có nhiều các sai sót riêng lẻ không trọng yếu, kiểm toán viên cần thông báo với Ban quản trị số lượng các sai sót và tổng hợp ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh, thay vì thông báo chi tiết từng sai sót riêng lẻ.

A23. Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 260, kiểm toán viên phải trao đổi với Ban quản trị đơn vị được kiểm toán về những nội dung mà kiểm toán viên yêu cầu giải trình bằng văn bản (xem đoạn 14 Chuẩn mực này).[15] Kiểm toán viên cần thảo luận với Ban quản trị về nguyên nhân và ảnh hưởng của việc không điều chỉnh các sai sót có cân nhắc đến quy mô, nội dung của các sai sót trong từng điều kiện cụ thể và những ảnh hưởng có thể có của các sai sót này đến báo cáo tài chính trong tương lai của đơn vị.

 

Share this post

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *